Danh sách bão Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 2019

Bão Pabuk - Bão số 1

Bài chi tiết: Bão Pabuk (2019)
Bão nhiệt đới (JMA)
Bão nhiệt đới (SSHWS)
 
Thời gian31 tháng 12 năm 2018 – 5 tháng 1 năm 2019 (ra khỏi khu vực)
Cường độ cực đại85 km/h (50 mph) (10-min)  996 hPa (mbar)

Cấp bão (Việt Nam): Cấp 9 giật cấp 12 - Bão nhiệt đới.

Cấp bão (Nhật Bản): 45 kn - Bão nhiệt đới; áp suất: 994 mbar (hPa).

Cấp bão (Hoa Kỳ): 50 kn - Bão nhiệt đới.

Cấp bão (Bắc Kinh): 28 m/s (Cấp 10) - Bão nhiệt đới dữ dội.

Cấp bão (Ấn Độ): 85 km/h (03 phút) - Bão xoáy nhiệt đới.

Cấp bão (Hàn Quốc): 23 m/s - Bão nhiệt đới.

Cấp bão (Đài Loan): 23 m/s - Bão nhiệt đới.

Cấp bão (Thái Lan): 45 kn (85 km/h) - Bão nhiệt đới.

Cấp bão (Indonesia): Xoáy thuận nhiệt đới.

Cấp bão (Hồng Kông): 85 km/h - Bão nhiệt đới.

  • Năm thứ 2 liên tiếp có bão sớm trên biển Đông ngay trong tháng 1 (2018 - 2019); đặc biệt hơn nữa lần đầu tiên ở biển Đông bão số 1 xuất hiện ngay ngày đầu năm mới (01/01). Tuy nhiên bão vẫn được xem là bão rớt mùa bão 2018 ở nước ta và là cơn bão trái mùa.
  • Hoa Kỳ đánh số cơn bão này là 36W vì họ quan trắc được nó đã đạt cấp độ ATNĐ trong ngày 31 tháng 12 năm 2018. Nhưng theo Việt Nam và Nhật Bản nó mạnh lên thành bão ngày 01/01/2019 nên được đặt tên Pabuk, số hiệu quốc tế 1901 và tính là bão số 1 trên biển Đông của mùa bão năm 2019.
  • Bão gây mưa trái mùa ở phía Nam nước ta trong những ngày đầu tháng 1/2019.
  • Theo Thái Lan, đây là cơn bão đầu tiên đổ bộ vào đất nước này vào mùa khô trong vòng khoảng 30 năm trở lại đây.
  • Tại Việt Nam, có một người chết, 2 người mất tích và thiệt hại ước tính là khoảng 27,87 tỷ đồng (1,2 triệu USD)[2].
  • Tại Thái Lan đã có bảy người chết và thiệt hại ước tính là 156 triệu USD (5 tỷ Bạt)[3].
  • Bão cũng giết chết một người tại Malaysia.

Áp thấp nhiệt đới 01W (Amang)

Áp thấp nhiệt đới (JMA)
Áp thấp nhiệt đới (SSHWS)
 
Thời gian4 tháng 1 – 22 tháng 1
Cường độ cực đại55 km/h (35 mph) (10-min)  1004 hPa (mbar)

Cấp bão (Việt Nam): Cấp 7 - Áp thấp nhiệt đới.

Cấp bão (Hoa Kỳ): 25kt - Áp thấp nhiệt đới nhưng không được công nhận và bị hạ xuống mức Nhiễu động.

Cấp bão (Nhật Bản): 30 kt - ATNĐ - Áp suất trung tâm tối thiểu: 1004 mbar (hPa).

Cấp bão (Philipines): 45 km/h giật 60 km/h - ATNĐ.

  • Khi Mỹ công nhận là ATNĐ ngày 04/01 (tuy nhiên sau đó JTWC đã loại bỏ các cảnh báo về áp thấp nhiệt đới và hạ cấp thành nhiễu động nhiệt đới và nhận định lại rằng nó chưa đủ mạnh, dù vậy nó vẫn được giữ kí hiệu 01W) thì Nhật chỉ cho rằng là vùng nhiễu động yếu và không theo dõi trên bản đồ khí áp. Mãi 2 tuần sau (19/01/2019) Nhật mới chỉ định vùng áp thấp này phát triển thành ATNĐ khi tàn dư 01W tiến dần đến gần Philippines gặp điều kiện thuận lợi hơn.

Bão Wutip (Betty)

Bài chi tiết: Bão Wutip (2019)
Bão cuồng phong (JMA)
Siêu bão cuồng phong cấp 5 (SSHWS)
 
Thời gian18 tháng 2 – 1 tháng 3
Cường độ cực đại195 km/h (120 mph) (10-min)  920 hPa (mbar)

Cấp bão (Nhật Bản): 105kts - Bão cuồng phong; Áp suất 920 mbar (hPa).

Cấp bão (Hoa Kỳ): 140 kts - Siêu bão cuồng phong cấp 5.

  • Wutip đã vượt qua cơn bão Higos (năm 2015) trở thành cơn bão mạnh nhất được ghi nhận trong tháng 2 ở phía Tây bắc Thái Bình Dương, đồng thời cũng là cơn bão mạnh nhất trong tháng 2 trên danh sách Cục Thời tiết Đài Loan ghi nhận kể từ năm 1911.

Áp thấp nhiệt đới 03W (Chedeng)

Áp thấp nhiệt đới (JMA)
Áp thấp nhiệt đới (SSHWS)
 
Thời gian14 tháng 3 – 20 tháng 3
Cường độ cực đại<55 km/h (35 mph) (10-min)  1006 hPa (mbar)

Cấp bão (Nhật Bản): 25kts - ATNĐ; Áp suất 1006 mbar (hPa).

Cấp bão (Hoa Kỳ): 25kts - ATNĐ.

Cấp bão (Philippines): ATNĐ.

  • Vào ngày 14 tháng 3, áp thấp nhiệt đới 03W đã hình thành trên Liên bang Micronesia. Trong vài ngày tiếp theo, hệ thống trôi về phía tây, trong khi dần dần tổ chức. Đầu ngày 17 tháng 3, áp thấp nhiệt đới xâm nhập vào khu vực trách nhiệm của PAGASA ở Biển Philippines, và do đó, cơ quan này đã gán tên Chedeng cho cơn bão, ngay trước khi nó đổ bộ vào Palau. Vào lúc 5:30 PST ngày 19 tháng 3, Chedeng đã đi vào Malita, Davao Occidental. Chedeng suy yếu nhanh chóng sau khi đổ bộ vào Philippines, sau đó suy yếu thành vùng thấp còn sót lại vào ngày 19 tháng 3. Tàn dư của Chedeng tiếp tục suy yếu trong khi di chuyển về phía tây, tiêu tan trên quần đảo phía nam Philippines vào ngày 20 tháng 3.

Bão Sepat (Dodong)

Bão nhiệt đới (JMA)
Subtropical storm (SSHWS)
 
Thời gian17 tháng 6 – 29 tháng 6
Cường độ cực đại75 km/h (45 mph) (10-min)  994 hPa (mbar)

Cấp bão (Nhật Bản): 40 kn (75 km/h) - Bão nhiệt đới; Áp suất 994 hpa.

Cấp bão (Hoa Kỳ): 40 kn (75 km/h) - Bão cận nhiệt đới.

Cấp bão (Hồng Kông): 55 km/h - Áp thấp nhiệt đới.

Cấp bão (Bắc Kinh): 70 km/h (20 m/s): Bão nhiệt đới.

Cấp bão (Hàn Quốc): 70 km/h (20 m/s): Bão nhiệt đới yếu.

Cấp bão (Đài Loan): 70 km/h (20 m/s): Bão nhiệt đới.

  • Vào ngày 17 tháng 6, JMA bắt đầu cảnh báo về 1 áp thấp nhiệt đới hình thành trên Quần đảo Caroline. Vào ngày hôm sau, áp thấp nhiệt đới di chuyển về phía đông trước khi ngừng hoạt động trên Thái Bình Dương. Vào ngày 21 tháng 6, áp thấp nhiệt đới đã nối lại chuyển động chậm về phía tây bắc. Vào lúc 19:00 Giờ chuẩn Philippines (07:00 UTC) ngày 22 tháng 6, áp thấp nhiệt đới đi vào khu vực theo dõi của PAGASA ở Biển Philippines, phía đông-đông bắc Guiuan; tuy nhiên, PAGASA không công nhận cơn bão là áp thấp nhiệt đới. Trong vài ngày tiếp theo, cơn bão đã di chuyển theo hướng đông bắc, đi qua Luzon vào ngày 24 tháng 6. Đầu ngày 25 tháng 6, áp thấp nhiệt đới đủ mạnh để PAGASA công nhận đó là một cơn bão nhiệt đới và đã gán tên Dodong cho nó. Cuối ngày hôm đó, Dodong từ từ bắt đầu quay về hướng đông bắc, sau khi đi qua phía đông bắc Luzon. JMA đặt tên cho cơn bão là "Sepat". Sau đó nó trở thành một xoáy thuận ngoại nhiệt đới do đi vào vùng biển và không khí lạnh. Bão đổ bộ lên Nhật Bản với sức gió tối đa 10 phút là 40 kn. JTWC cho rằng đây là một cơn bão cận nhiệt đới.[4]

Áp thấp nhiệt đới 04W (Egay)

Áp thấp nhiệt đới (JMA)
Bão nhiệt đới (SSHWS)
 
Thời gian27 tháng 6 – 2 tháng 7
Cường độ cực đại55 km/h (35 mph) (10-min)  1006 hPa (mbar)

Cấp bão (Hoa Kỳ): 35 kt - Bão nhiệt đới.

Cấp bão (Nhật Bản): <30 kt - Áp thấp nhiệt đới.

Cấp bão (Đài Loan): 15 m/s (55 km/h) - Áp thấp nhiệt đới.

  • Sáng sớm ngày 27 tháng 6, một áp thấp nhiệt đới hình thành ở phía tây nam của Quần đảo Mariana. Vào khoảng 21:00 Giờ chuẩn Philippines (09:00 UTC), áp thấp nhiệt đới xâm nhập vào khu vực trách nhiệm của PAGASA ở Biển Philippines, mặc dù PAGASA không công nhận hệ thống này là một cơn bão nhiệt đới vào thời điểm đó. Vào ngày 28 tháng 6, JTWC đã khởi xướng các cố vấn trên hệ thống và đưa cho nó số nhận dạng 04W. Vào ngày hôm sau, PAGASA đặt tên cho áp thấp nhiệt đới là Egay và JTWC đã nhận ra Egay là một cơn bão nhiệt đới. Vào ngày 30 tháng 6, áp thấp nhiệt đới Egay gặp phải gió mạnh ở biển Philippines và bắt đầu suy yếu ngay sau đó. Vào ngày 1 tháng 7, Egay đã đổ bộ vào miền nam Đài Loan và cả PAGASA và JTWC đã đưa ra những cảnh báo cuối cùng về cơn bão suy yếu. Sau đó, Egay quay về hướng bắc-tây bắc, đi qua phía bắc Đài Loan, trước khi tan biến sớm vào ngày hôm sau.

Bão Mun - Bão số 2

Bài chi tiết: Bão Mun (2019)
Bão nhiệt đới (JMA)
Bão nhiệt đới (SSHWS)
 
Thời gian1 Tháng 7 – 4 Tháng 7
Cường độ cực đại65 km/h (40 mph) (10-min)  992 hPa (mbar)

Cấp bão (Việt Nam): 65 km/h (Cấp 8) - Bão nhiệt đới.

Cấp bão (Nhật Bản): 35kts - Bão nhiệt đới, áp suất: 992 mbar (hPa).

Cấp bão (Hoa Kỳ - Mỹ): 35kts- Bão nhiệt đới.

Cấp bão (Bắc Kinh - Trung Quốc): 18 m/s - Bão nhiệt đới.

Cấp bão (Hồng Kông): 55 km/h - Áp thấp nhiệt đới.

Cấp bão (Hàn Quốc): 18 m/s (65 km/h) - Bão NĐ.

Cấp bão (Đài Loan):18 m/s (35kts|65 km/h) - Bão NĐ.

  • Hoàn lưu bão số 2 cùng rãnh áp thấp nối với nó đã gây mưa trên diện rộng cho các khu vực ở nước ta, trong đó đặc biệt là các tỉnh Trung Bộ, mưa do bão đã chấm dứt đợt nắng nóng kéo dài 29 ngày (03/6-01/7/2019) cũng như làm giảm phần nào tình trạng khô hạn nghiêm trọng, cháy rừng tại miền Trung.
  • Phần lớn thời gian hoạt động của bão (từ khi mạnh lên thành ATNĐ ngày 01/7 đến khi bão đi vào vùng biển Hải Phòng - Nam Định), Trung tâm Cảnh báo Bão Liên hợp (Hải quân Hoa Kỳ) chỉ coi nó là một vùng thấp (Vùng thấp 96W). Mãi đến 01h ngày 4/7 (giờ Việt Nam) (18h UTC ngày 03/7) khi Mun đi vào vùng biển Hải Phòng - Nam Định thì cơ quan này mới công nhận Mun là bão và phát đi dự báo duy nhất.
  • Bão số 2 đổ bộ vào các tỉnh Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định lúc 5h ngày 04/7, tâm bão đi qua thị trấn Diêm Điền, phía Bắc huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Đây là cơn bão đầu tiên đổ bộ trực tiếp vào Bắc Bộ nước ta kể từ bão Dianmu (bão số 3) năm 2016, nếu tính rộng hơn trên phạm vi xoáy thuận nhiệt đới thì đây là xoáy thuận đầu tiên sau ATNĐ ngày 25/9/2017. Bão gây gió giật mạnh từ cấp 6-9 cho các tỉnh ven biển từ Quảng Ninh đến Ninh Bình (riêng Hải Phòng cấp 8-9 giật cấp 11) và sâu trong đất liền một số tỉnh Đồng Bằng Bắc Bộ.

Bão Danas (Falcon)

Bão nhiệt đới (JMA)
Bão nhiệt đới (SSHWS)
 
Thời gian14 tháng 7 – 21 tháng 7
Cường độ cực đại85 km/h (50 mph) (10-min)  985 hPa (mbar)

Cấp bão (Việt Nam): Cấp 8 - Bão NĐ (ngừng phát tin cảnh báo vào ngày 18/07/2019).

Cấp bão (Nhật Bản): 45 kn - Bão NĐ, áp suất 985 mbar (hPa).

Cấp bão (Hoa Kỳ): 45 kn - Bão NĐ.

Cấp bão (Philippines): Bão NĐ.

Cấp bão (Hàn Quốc): 24 m/s (86 km/h) - Bão NĐ.

Cấp bão (Đài Loan): 45 kn - Bão NĐ.

Cấp bão (Bắc Kinh-Trung Quốc): 23 m/s (45kt) - Bão NĐ.

Cấp bão (Hồng Kông): 85 km/h - Bão NĐ.

  • Sáng sớm ngày 14 tháng 7, một vùng áp thấp tổ chức thành áp thấp nhiệt đới ở phía tây nam Quần đảo Caroline. Cuối ngày hôm đó, áp thấp nhiệt đới xâm nhập vào khu vực trách nhiệm của PhilippinesPAGASA đã đặt cho hệ thống này tên Falcon.Chiều ngày 16 tháng 7 lúc 15 giờ theo giờ Nhật Bản, nó mạnh thành bão và JMA gán tên cho nó là Danas. Theo Hàn Quốc, cơn bão đã suy yếu thành ấp thấp nhiệt đới trước khi đổ bộ vào nước này.

Áp thấp nhiệt đới Goring

Áp thấp nhiệt đới (JMA)
 
Thời gian17 tháng 7 – 19 tháng 7
Cường độ cực đại55 km/h (35 mph) (10-min)  996 hPa (mbar)

Cấp bão (Việt Nam): 56 km/h (Cấp 6~7) - Áp thấp nhiệt đới (Ra khỏi biển Đông ngày 19/07/2019).

Cấp bão (Nhật Bản): 30 kt - Áp thấp nhiệt đới.

Cấp bão (Philippines): Áp thấp nhiệt đới.

Vào ngày 17 tháng 7, một áp thấp nhiệt đới hình thành từ phần phía tây của cơn bão nhiệt đới Danas, trên phần phía đông của Biển Đông, ngay ngoài khơi Luzon. Trong vài ngày tiếp theo, hệ thống di chuyển theo hướng đông bắc và vào lại Khu vực Trách nhiệm Philippines (PAGASA) và được đặt tên là Goring trong khi JTWC ban hành TCFA về Goring. Goring đã đi qua miền nam Đài Loan vào đầu ngày 19 tháng 7. Sau đó, JTWC đã hủy bỏ TCFA và đã hạ thấp cơ hội phát triển của Goring xuống mức ''trung bình''.

Bão Nari

Bão nhiệt đới (JMA)
Bão nhiệt đới (SSHWS)
 
Thời gian24 tháng 7 – 28 tháng 7
Cường độ cực đại65 km/h (40 mph) (10-min)  998 hPa (mbar)

Cấp bão (Nhật Bản): 35 kn - Bão NĐ; Áp suất 998 mbar (hPa).

Cấp bão (Hoa Kỳ): 35 kn - Bão NĐ.

  • Vào ngày 21 tháng 7, JTWC bắt đầu theo dõi một vùng áp thấp để hình thành tiềm năng của một cơn bão nhiệt đới. Trong điều kiện thuận lợi, hệ thống sẽ tự tổ chức trong vài ngày tới. Vào lúc 00:00 UTC ngày 24 tháng 7, nó đã phát triển thành áp thấp nhiệt đới ở phía tây quần đảo Bonin. Cơn bão dần trở nên có tổ chức hơn trong khi di chuyển theo hướng bắc-tây bắc. Đầu ngày 25 tháng 7, JTWC đã khởi xướng các cố vấn về cơn bão và đưa ra nhận dạng "07W". Đầu ngày 26 tháng 7, áp thấp nhiệt đới mạnh lên thành một cơn bão nhiệt đới và JMA đặt tên cho nó là Nari trong khi nó di chuyển về phía bắc. Cơn bão đã bao trùm miền nam Nhật Bản và khi nó di chuyển vào đất liền, nó suy yếu thành áp thấp nhiệt đới. Vài giờ sau, nó suy yếu thành mức thấp còn sót lại. Do đó, JTWC và JMA đã ngừng đưa ra cảnh báo về Nari.

Bão Wipha - Bão số 3

Bài chi tiết: Bão Wipha (2019)
Bão nhiệt đới (JMA)
Bão nhiệt đới (SSHWS)
 
Thời gian30 tháng 7 – 4 tháng 8
Cường độ cực đại85 km/h (50 mph) (10-min)  985 hPa (mbar)

Cấp bão (Việt Nam): 76 km/h (Cấp 8~9) - Bão nhiệt đới.

Cấp bão (Nhật Bản): 45kts - Bão nhiệt đới; Áp suất: 992 mbar (hPa).

Cấp bão (Hoa Kỳ - Mỹ): 40kts - Bão nhiệt đới.

Cấp bão (Bắc Kinh - Trung Quốc): 20 m/s - Bão nhiệt đới.

Cấp bão (Hồng Kông): 85 km/h - Bão nhiệt đới.

Cấp bão (Hàn Quốc): 20 m/s (72 km/h) - Bão nhiệt đới.

Cấp bão (Đài Loan): 20 m/s (39kts|72 km/h) - Bão nhiệt đới.

  • 22h30 ngày 02/8/2019, bão số 3 đã đổ bộ vào phía Bắc Quảng Ninh (tâm bão đi qua TP. Móng Cái), sau chuyển hướng Tây Tây Nam - Tây Nam quét dọc các tỉnh: Quảng Ninh - Hải Phòng - Hải Dương - Hưng Yên trong ngày 03/8 và suy yếu thành ATNĐ, ATNĐ đi đến Hà Nam - Ninh Bình - Hòa Bình thì suy yếu thành 1 vùng áp thấp, trôi về phía Tây Thanh Hóa đi sang Thượng Lào và tan dần. (Riêng cơ quan khí tượng Nhật Bản cho rằng khi bão đi đến địa phận tỉnh Ninh Bình chiều tối 03/8 mới suy yếu thành ATNĐ).
  • Bão gây gió mạnh cấp 6-7 giật cấp 8-9 cho khu vực Đông Bắc và Đồng bằng Bắc Bộ, cụ thể:
    • Móng Cái (17 m/s giật 23 m/s), Hải Dương (12 m/s giật 20 m/s),....←
  • Cơn bão Wipha là cơn bão số 3 đổ bộ vào nước ta với sức gió từ 65 km/h-85 km/h. Rạng sáng ngày 30/7, JMA và NCHMF đã công nhận Wipha là một vùng áp thấp nhiệt đới hoạt động trên biển Đông.Trưa ngày 30/7, NCHMF đã cảnh báo đây là cơn bão nhiệt đới, có khả năng mạnh lên thành bão là 90%. Chiều ngày 30/7, áp thấp nhiệt đới đã mạnh lên thành bão và được gọi là Wipha. Đến đêm ngày 30/7, bão đổ bộ vào đảo Hải Nam và suy yếu thành áp thấp nhiệt đới nên JMA đã ngừng cảnh báo. Tuy nhiên, chỉ 3 tiếng sau, JMA một lần nữa gióng lên hồi chuông cảnh báo khi Wipha vượt qua Vịnh Bắc Bộ và trở lại là bão. Đêm ngày 2/8 - rạng sáng ngày 3/8, bão đổ bộ vào Quảng Ninh và di chuyển dọc theo hướng Nam rồi suy yếu dần thành áp thấp nhiệt đới.
  • Hoàn lưu bão gây mưa to và ngập lụt tại các tỉnh miền Bắc nước ta, đặc biệt tại tâm bão Móng Cái. Trước đó bão cũng gây mưa lớn gió mạnh cho miền Nam Trung Quốc. Khi tiến vào nước ta, bão trút lượng mưa từ 100-300mm.

Bão Francisco

Bài chi tiết: Bão Francisco (2019)
Bão cuồng phong (JMA)
Bão cuồng phong cấp 1 (SSHWS)
 
Thời gian1 tháng 8 – 8 tháng 8
Cường độ cực đại130 km/h (80 mph) (10-min)  970 hPa (mbar)

Cấp bão (Nhật Bản): 130 km/h (80 mph) 70kts - Bão cuồng phong; Áp Suất 975mbar (hPa).

Cấp bão (Hoa Kỳ): 75kts - Bão cuồng phong cấp 1.

Bão Lekima (Hanna)

Bài chi tiết: Bão Lekima (2019)
Bão cuồng phong (JMA)
Siêu bão cuồng phong cấp 4 (SSHWS)
 
Thời gian2 tháng 8 – 14 tháng 8
Cường độ cực đại195 km/h (120 mph) (10-min)  925 hPa (mbar)

Cấp bão (Nhật Bản): 105kts - Bão cuồng phong; Áp Suất 925mbar (hPa).

Cấp bão (Hoa Kỳ): 130kts - Siêu bão cuồng phong cấp 4.

Cấp bão (Philippines): Bão cuồng phong.

Cấp bão (Hồng Kông - Trung Quốc): 185 km/h - Bão cuồng phong dữ dội.

Cấp bão (Bắc Kinh - Trung Quốc):

Cấp bão (Đài Loan):

Cấp bão (Hàn Quốc):

Bão Krosa

Bài chi tiết: Bão Krosa (2019)
Bão cuồng phong (JMA)
Bão cuồng phong cấp 3 (SSHWS)
 
Thời gian5 tháng 8 – 17 tháng 8
Cường độ cực đại140 km/h (85 mph) (10-min)  965 hPa (mbar)

Cấp bão (Nhật Bản): 75kts - Bão cuồng phong. Áp suất 965hPa

Cấp bão (Hoa Kỳ): 100kts - Bão cuồng phong cấp 3.

Một áp thấp nhiệt đới đã mạnh lên thành bão ở phía tây quần đảo Mariana ngày 6 tháng 8.

Bão Bailu (Ineng)

Bão nhiệt đới dữ dội (JMA)
Bão nhiệt đới (SSHWS)
 
Thời gian20 tháng 8 – 26 tháng 8
Cường độ cực đại95 km/h (60 mph) (10-min)  985 hPa (mbar)

Cấp bão (Nhật Bản): 50kts - bão nhiệt đới dữ dội. Áp suất 985HPa (mBar)

Cấp bão (Hoa Kỳ): 55 kts - bão nhiệt đới

Cấp bão (Hồng Kông): 105 km/h - bão nhiệt đới dữ dội

Cấp bão (Bắc Kinh): 30 m/s - bão nhiệt đới mạnh

Cấp bão (Đài Loan): 30 m/s - bão nhiệt đới mạnh

Cấp bão (Philippines): Bão nhiệt đới dữ dội

Bão Podul (Jenny) - Bão số 4

Bài chi tiết: Bão Podul (2019)
Bão nhiệt đới (JMA)
Bão nhiệt đới (SSHWS)
 
Thời gian25 tháng 8 – 31 tháng 8
Cường độ cực đại75 km/h (45 mph) (10-min)  992 hPa (mbar)

Cấp bão (Việt Nam): Cấp 9 - Bão nhiệt đới

Cấp bão (Hoa Kỳ): 35 kts - bão nhiệt đới

Cấp bão (Nhật Bản): 40 kts - bão nhiệt đới. Áp suất 992 hPa (mBar)

Cấp bão (Hồng Kông): 85 km/h - bão nhiệt đới

Cấp bão (Bắc Kinh): 25 m/s (90 km/h) - bão nhiệt đới

Cấp bão (Philippines): Bão nhiệt đới

Cấp bão (Hàn): 24 m/s - 86,4 km/h - bão yếu

Cấp bão (Đài Loan): 23 m/s - 45kts - bão yếu

  • 01h ngày 30/8, bão số 4 đã đổ bộ vào đất liền tỉnh Quảng Bình, tâm bão đi qua thị xã Ba Đồn.
  • Đây là cơn bão di chuyển rất nhanh, có lúc lên tới 35 km/h, cường độ không mạnh và chỉ tồn tại chưa đầy hai ngày trên biển Đông trước khi cập bờ biển Quảng Bình.

Bão Faxai

Bài chi tiết: Bão Faxai (2019)
Bão cuồng phong (JMA)
Bão cuồng phong cấp 4 (SSHWS)
 
Thời gian30 tháng 8 – 10 tháng 9
Cường độ cực đại155 km/h (100 mph) (10-min)  955 hPa (mbar)

Cấp bão (Nhật Bản): 85kts - bão cuồng phong. Áp suất tối thiểu 955 hPa

Cấp bão (Hoa Kỳ): 115kts - bão cuồng phong cấp 4.

  • Đêm chủ nhật ngày 8 tháng 9, bão Faxai đã đổ bộ trực tiếp lên thành phố Chiba và thủ đô Tokyo, Nhật Bản. Gió giật mạnh nhất lên tới 209 km/h được ghi nhận tại đảo Kozu, phá vỡ kỷ lục trước đó bởi cơn bão Higos năm 2002. Cơn bão đã khiến ít nhất 5 người chết và 40 người bị thương, trong đó có hai người chết vì bị sốc nhiệt bởi khối khí nóng được cơn bão mang theo; 1 triệu người mất điện. Tại thành phố Izu, tỉnh Shizuoka, lượng mưa đo được trong 24 giờ ngày 9 tháng 9 là 440 mm, gây ngập nhiều tuyến phố và tàu điện ngầm. Do ảnh hưởng của bão, cúp bóng bầu dục quốc tế tại Tokyo đã được hoãn lại. Thiệt hại mùa màng ước tính là vào khoảng 47,55 tỷ ¥ ($433 triệu). Tổng thiệt hại do bão gây ra cho nền kinh tế toàn cầu ước tính lên tới 5 đến 9 tỷ USD.[5]
  • Bão Faxai là cơn bão mạnh nhất đổ bộ lên vùng Kantō kể từ khi siêu bão Ma-on năm 2004.

Bão Kajiki (Kabayan)

Bài chi tiết: Bão Kajiki (2019)
Bão nhiệt đới (JMA)
Áp thấp nhiệt đới (SSHWS)
 
Thời gian30 tháng 8 – 7 tháng 9
Cường độ cực đại65 km/h (40 mph) (10-min)  996 hPa (mbar)

Cấp bão (Việt Nam): Cấp 6~7 — Áp thấp nhiệt đới

Cấp bão (Nhật Bản): 35kts - bão nhiệt đới. Áp suất: 996 hPa (mBar)

Cấp bão (Hoa Kỳ): 30kts - Áp thấp nhiệt đới

Cấp bão (Philippines): Áp thấp nhiệt đới

Cấp bão (Hồng Kông): 55 km/h - Áp thấp nhiệt đới

Cấp bão (Bắc Kinh): 18 m/s - Bão nhiệt đới

Cấp bão (Hàn Quốc): 18 m/s - bão yếu

Cấp bão (Đài Loan): 18 m/s - bão nhiệt đới yếu

  • Khi đổ bộ vào đất liền tỉnh Thừa Thiên Huế, ATNĐ đã được Nhật Bản công nhận là bão Kajiki, tuy nhiên Trung tâm Dự báo Khí tượng thủy văn Trung ương vẫn chưa công nhận là bão.
  • Có 2 ATNĐ cùng tồn tại ở biển Đông vào ngày Quốc khánh 02/9/2019 (ATNĐ còn lại là vùng thấp 94W), cùng dải hội tụ nhiệt đới gây mưa rất lớn ở các tỉnh từ Nghệ An đến Quảng Ngãi.
  • Diễn biến của Kajiki tương đối giống ATNĐ từ 03-09/09/2009 (cũng luẩn quẩn quanh ven biển Trung Bộ và tồn tại 2 ATNĐ song song), có khác là ATNĐ Kajiki này luẩn quẩn 1 ngày trên đất liền ba tỉnh/thành phố là Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam.
  • Lần đầu tiên kể từ tháng 2 năm 2013 (cơn bão Shanshan/ATNĐ tháng 2-2013), một xoáy thuận nhiệt đới trên biển Đông được JMA công nhận là bão và đặt tên quốc tế nhưng trong khi đó Việt Nam chỉ công nhận là một áp thấp nhiệt đới.

Bão Lingling (Liwayway)

Bài chi tiết: Bão Lingling (2019)
Bão cuồng phong (JMA)
Bão cuồng phong cấp 4 (SSHWS)
 
Thời gian31 tháng 8 – 8 tháng 9
Cường độ cực đại175 km/h (110 mph) (10-min)  940 hPa (mbar)

Cấp bão (Nhật Bản): 95kts - bão cuồng phong. Áp suất: 940 hPa

Cấp bão (Hoa Kỳ): 120kts - bão cuồng phong cấp 4.

Cấp bão (Hồng Kông): 185 km/h - siêu bão

Cấp bão (Bắc Kinh): 53 m/s (190 km/h) - bão cuồng phong

Cấp bão (Hàn Quốc): 45 m/s - bão cuồng phong

Cấp bão (Đài Loan): 48 m/s - bão cuồng phong

Cấp bão (Philippines): bão cuồng phong

  • Bão Lingling được xem là cơn bão mạnh nhất đổ bộ vào nước CHDCND Triều Tiên trong lịch sử với sức gió lên đến trên 130 km/h khi đổ bộ (07/9/2019). Bão Lingling cũng là cơn bão đầu tiên đổ bộ trực tiếp vào Triều Tiên kể từ bão Bolaven năm 2012.
  • Áp thấp nhiệt đới Liwayway ờ phía đông Philippines đã mạnh lên thành bão vào ngày 3 tháng 9. Bão Lingling hút tàn dư của Kajiki và vùng thấp trên biển Đông và bùng nổ sức gió vào sáng ngày 5 tháng 9, trong vòng 6 tiếng nó đã mạnh lên từ bão cấp 2 trở thành bão cuồng phong cấp 4 trên thang bão Saffir-Simpson với sức gió tối đa 1 phút là 220 km/h ngay ở phía Đông Đài Loan. Bão Lingling đã đổ bộ lên bán đảo Triều Tiên, phần thuộc Bắc Triều Tiên vào ngày thứ bảy. Sức gió mạnh nhất ghi nhận được lên tới 191 km/h. Cơn bão khiến 3 người chết và 10 người bị thương ở Hàn Quốc, 5 người chết và 3 người bị thương ở Triều Tiên. Đây là cơn bão mạnh nhất đổ bộ trực tiếp lên bán đảo Triều Tiên kể từ khi cơn bão Maemi năm 2003.

Áp thấp nhiệt đới Marilyn

Áp thấp nhiệt đới (JMA)
Subtropical storm (SSHWS)
 
Thời gian10 tháng 9 – 13 tháng 9
Cường độ cực đại55 km/h (35 mph) (10-min)  996 hPa (mbar)

Cấp bão (Nhật Bản): 30kts - áp thấp nhiệt đới, áp suất: 996 hPa

Cấp bão (Philippines): áp thấp nhiệt đới

Cấp bão (Hoa Kỳ): 35kts - ấp thấp gió mùa

Bão Peipah

Bão nhiệt đới (JMA)
Bão nhiệt đới (SSHWS)
 
Thời gian13 tháng 9 – 16 tháng 9
Cường độ cực đại65 km/h (40 mph) (10-min)  1000 hPa (mbar)

Cấp bão (Nhật Bản): 35kts - bão nhiệt đới, áp suất tối thiểu 1000 hPa

Cấp bão (Hoa Kỳ): 35kts - bão nhiệt đới

Một vùng áp thấp hình thành ở giữa Thái Bình Dương ngày 14 tháng 9 và đã mạnh lên thành bão. Tuy nhiên nó chỉ giữ được cấp bão trong vòng 12 giờ trước khi suy yếu thành áp thấp nhiệt đới.

Bão Tapah (Nimfa)

Bão cuồng phong (JMA)
Bão nhiệt đới (SSHWS)
 
Thời gian17 tháng 9 – 23 tháng 9
Cường độ cực đại120 km/h (75 mph) (10-min)  970 hPa (mbar)

Cấp bão (Nhật): 65kts - bão cuồng phong. Áp suất tối thiểu 970hPa

Cấp bão (Hoa Kỳ): 60kts - Bão nhiệt đới

Cấp bão (Philippines): Bão nhiệt đới

Cấp bão (Hồng Kông): 90 km/h - bão nhiệt đới dữ dội

Cấp bão (Bắc Kinh): 30 m/s - bão nhiệt đới dữ dội

Cấp bão (Hàn Quốc): 29 m/s - bão nhiệt đới mạnh

Tàn dư của Marilyn vẫn chưa tàn hẳn mà vẫn tiếp tục di chuyển ở vùng biển phía Đông Philippines nên trong ngày 17 tháng 9 nó đã hút lấy hoàn lưu của một vùng thấp ở phía Tây Luzon và nó đã mạnh lên trở lại thành một áp thấp nhiệt đới và được PAGASA gán tên là Nimfa. Sang ngày thứ sáu nó đã mạnh lên thành bão.Thiệt hại cho nông ngư nghiệp ở Okinawa là 583 triệu ¥ (5,42 triệu USD). Tổn thất do bão gây ra ở Pohang, Hàn Quốc là khoảng 2,96 tỷ (2,48 triệu USD).

Bão Mitag (Onyok)

Bài chi tiết: Bão Mitag (2019)
Bão cuồng phong (JMA)
Bão cuồng phong cấp 2 (SSHWS)
 
Thời gian26 tháng 9 – 3 tháng 10
Cường độ cực đại140 km/h (85 mph) (10-min)  965 hPa (mbar)

Cấp bão (Nhật): 80kts - bão cuồng phong. Áp suất tối thiểu: 965hPa

Cấp bão (Hoa Kỳ): 95kts - bão cuồng phong cấp 2.

Một vùng áp thấp hình thành ở khu vực quần đảo Caroline ngày 26 tháng 9 và được JTWC gán số hiệu là 19W.

  • Mitag đổ bộ lên Hàn Quốc và khiến ít nhất 13 người thiệt mạng, 2 người mất tích cùng thiệt hại vật chất khá lớn cho nước này. Trước đó bão cũng khiến 6 người ở Đài Loan và 3 người khác ở Trung Quốc thiệt mạng, thiệt hại vật chất ước tính 1,856 tỷ CN¥ (260 triệu USD).

Bão Hagibis

Bài chi tiết: Bão Hagibis (2019)
Bão cuồng phong (JMA)
Siêu bão cuồng phong cấp 5 (SSHWS)
 
Thời gian4 Tháng 10 – 14 tháng 10
Cường độ cực đại195 km/h (120 mph) (10-min)  915 hPa (mbar)

Cấp bão (Nhật): 105kts - Áp suất tối thiểu 915 hPa (mBar).

Cấp bão (Hoa Kỳ): 140kts - Siêu bão cuồng phong cấp 5.

Cấp bão (Hàn Quốc):

Vào ngày 4 tháng 10, một vùng áp thấp đã hình thành gần đảo Wake. Trung tâm Cảnh báo Bão Liên hợp (JTWC) đã phát đi tín hiệu cảnh báo rằng vùng thấp 20W có khả năng mạnh lên thành bão trong 24 giờ tiếp theo. Sang ngày hôm sau, JMA đã bắt đầu theo dõi và dự báo cho áp thấp nhiệt đới. Đến ngày 6 tháng 10, JMA gán tên cho cơn bão là Hagibis. Hagibis đã trải qua quá trình bùng nổ cường độ một cách rất dữ dội, từ khi là một con bão nhiệt đới vào 6/10, bão tăng cường sức gió 140 km/h chỉ trong vòng 18 giờ, thành một siêu bão cấp 5 trên thang bão Saffir-Simpson. Đây được xem là lần bùng nổ kỷ lục nhất của một xoáy thuận nhiệt đới trên Trái đất, kể từ siêu bão Yates năm 1996.[6] Vào chiều ngày 7 tháng 10, Hagibis đã vượt qua bão Wutip hồi tháng 2 để trở thành cơn bão mạnh thứ hai trên vùng Tây Bắc Thái Bình Dương năm nay chỉ sau Bão Halong. Cơn bão sau đó đã đổi hướng qua hướng Tây Bắc, vượt qua quần đảo Mariana lúc 15:30 UTC ngày 7 tháng 10 trong khi đang đạt cường độ mạnh nhất với sức gió tối đa 10 phút là 195 km/h, áp suất thấp nhất 915 hPa (27.02 inHg).[7]

Đến sáng ngày 8 tháng 10, Hagibis suy yếu đi một chút xuống thành siêu bão cấp 4 và trải qua chu kỳ thay thế mắt bão (Eyewall replacement cycle) thành công, mắt bão được củng cố và đạt cấp siêu bão cấp 5 trở lại với sức gió 1 phút là 260 km/h (160 dặm/h) vào sáng ngày 9 tháng 10.[8] Hagibis di chuyển dần lên phía bắc và bị suy yếu do sự giảm dần các điều kiện thuận lợi cho bão hoạt động.

Khoảng 09:00 UTC (6 giờ tối địa phương) ngày 12 tháng 10, Hagibis đổ bộ trực tiếp lên bán đảo Izu, tỉnh Chiba, Honshu với sức gió 10 phút mạnh nhất là 150 km/h và áp suất tối thiểu 950 hPa.[9][10] Cơn bão được cho là "mạnh và tồi tệ nhất trong hơn một thập kỷ" tại miền Đông Nhật Bản, buổi chính phủ phải ban hành các tình trạng khẩn cấp về gió mạnh, lũ ống, lũ quét nguy hiểm và ngập lụt diện rộng cho các tỉnh thuộc vùng Kantō bao gồm Shizuoka, Nagano, Kanagawa, Saitama, Gunma, Tokyo và Yamanashi.[11][12] Toàn bộ các hệ thống đường sắt, đường hàng không Nhật Bản đều phải tuyên bố tạm ngưng hoạt động

Tính đến sáng ngày 13 tháng 10, Hagibis khiến ít nhất 35 người thiệt mạng và 17 người mất tích.

Bão Neoguri (Perla)

Bão cuồng phong (JMA)
Bão cuồng phong cấp 2 (SSHWS)
 
Thời gian15 Tháng 10 – 22 tháng 10
Cường độ cực đại140 km/h (85 mph) (10-min)  970 hPa (mbar)

Cấp bão (Nhật): 75kts - Bão cuồng phong. Áp suất tối thiểu: 970hPa

Cấp bão (Hoa Kỳ): 95kts - bão cuồng phong cấp 2

Cấp bão (Philippines): Bão cuồng phong

Bão Bualoi

Bão cuồng phong (JMA)
Bão cuồng phong cấp 4 (SSHWS)
 
Thời gian18 Tháng 10 – 26 tháng 10
Cường độ cực đại185 km/h (115 mph) (10-min)  935 hPa (mbar)

Cấp bão (Nhật Bản): 100kts - bão cuồng phong. Áp suất tối thiểu 935 hPa

Cấp bão (Hoa Kỳ): 125kts - bão cuồng phong cấp 4.

Bão Matmo - Bão số 5

Bài chi tiết: Bão Bulbul-Matmo (2019)
Bão nhiệt đới dữ dội (JMA)
Bão nhiệt đới (SSHWS)
 
Thời gian28 Tháng 10 – 2 tháng 11 (ra khỏi khu vực)
Cường độ cực đại95 km/h (60 mph) (10-min)  992 hPa (mbar)

Cấp bão (Việt Nam): Cấp 9~10 - bão nhiệt đới dữ dội

Cấp bão (Nhật Bản): 50kts - bão nhiệt đới dữ dội. Áp suất tối thiểu 992 hPa

Cấp bão (Hoa Kỳ): 50kts - bão nhiệt đới

Cấp bão (Hồng Kông): 90 km/h - bão nhiệt đới dữ dội

Cấp bão (Bắc Kinh): 25 m/s - bão nhiệt đới mạnh.

  • Khoảng 23h50 phút ngày 30/10/2019 bão số 5 đổ bộ vào phía Nam thị xã Sông Cầu (tỉnh Phú Yên) với cường độ cấp 8-9 giật cấp 11. Gió mạnh đã khiến nhiều cây xanh ở 2 tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định gãy đổ hoặc bị bật gốc. Ở các tỉnh từ Quảng Ngãi đến Phú Yên đã có mưa to đến rất to. Lượng mưa trong khoảng 24 giờ qua phổ biến 150-300mm.[13][14][15]
  • Vùng thấp suy yếu từ bão Matmo tràn sang Ấn Độ Dương và mạnh trở lại thành cơn bão mới với tên quốc tế Bulbul (JTWC vẫn giữ tên Matmo).

Bão Halong

Bài chi tiết: Bão Halong (2019)
Bão cuồng phong (JMA)
Siêu bão cuồng phong cấp 5 (SSHWS)
 
Thời gian2 Tháng 11 – 10 tháng 11
Cường độ cực đại215 km/h (130 mph) (10-min)  905 hPa (mbar)

Cấp bão (Nhật Bản): 115kts - bão cuồng phong. Áp suất tối thiểu 905hPa

Cấp bão (Hoa Kỳ): 155kts - Siêu bão cuồng phong cấp 5

Vào ngày 02 tháng 11, một hệ thống áp thấp được có tổ chức tốt nhanh chóng phát triển thành một áp thấp nhiệt đới vài trăm dặm về phía đông của quần đảo Bắc Mariana. Áp thấp mạnh lên nhanh chóng và được nâng cấp thành Bão nhiệt đới Hạ Long cùng ngày. Cơn bão tiếp tục mạnh lên trên vùng biển mở, đạt đến trạng thái bão mạnh. Khi Hạ Long mở mắt, cường độ bùng nổ xảy ra vào ngày 4 tháng 11 và Hạ Long trở thành siêu bão cấp 5 vào ngày 5 tháng 11 với sức gió cao nhất trong 1 phút và 10 phút lần lượt là 285 km/giờ và 215 km/giờ cùng áp suất thấp nhất đạt 905mbar. Vào ngày 6 tháng 11, Hạ Long bắt đầu trải qua chu kỳ thay thế mắt bão và đi vào môi trường ít thuận lợi với việc giảm nhiệt độ mặt nước biển cùng với sự xâm nhập của không khí khô bắt đầu gây suy yếu cho hệ thống, và sự đối lưu của bão bị ảnh hưởng nặng nề khiến nó giảm xuống thành bão cấp 4 vào lúc 18:00 UTC. Vào ngày 8 tháng 11, Hạ Long đã giảm xuống dưới cường độ bão mạnh và cuối cùng chuyển đổi trở thành trạng thái ngoại nhiệt đới vào ngày hôm sau.

  • Vào ngày 6/11, Sau khi đạt cường độ cực đại với áp suất khí quyển dưới 905 mbar (hPa), bão Halong đã vượt qua bão Hagibis để trở thành bão mạnh nhất vùng Tây Bắc Thái Bình Dương năm nay, đồng thời cũng vượt qua bão Dorian ở Đại Tây Dương, chính thức trở thành cơn bão mạnh nhất thế giới năm 2019.

Bão Nakri (Quiel) - bão số 6

Bài chi tiết: Bão Nakri (2019)
Bão cuồng phong (JMA)
Bão cuồng phong cấp 1 (SSHWS)
 
Thời gian5 Tháng 11 – 11 tháng 11
Cường độ cực đại120 km/h (75 mph) (10-min)  975 hPa (mbar)

Cấp bão (Việt Nam): cấp 12 - bão cuồng phong

Cấp bão (Nhật Bản): 65kts - bão cuồng phong. Áp suất tối thiểu 975hPA

Cấp bão (Hoa Kỳ): 65kts - bão cuồng phong cấp 1

Cấp bão (Philippines): Bão cuồng phong

Cấp bão (Trung Quốc): 34 m/s - bão cuồng phong

Cấp bão (Hồng Kông): 110 km/h - bão nhiệt đới dữ dội

Cấp bão (Hàn Quốc): 35 m/s - bão cuồng phong

  • Một vùng nhiễu động nhiệt đới trên biển Đông đã mạnh lên thành áp thấp nhiệt đới. Áp thấp sau đó được PAGASA gán tên cho là Quiel. Vào tối ngày 5 tháng 11, nó đã mạnh lên thành một cơn bão có tên quốc tế là Nakri. Vì ở trên biển lâu hơn 1 tuần, khoảng thời gian hoàn hảo để bão hấp thụ năng lượng nên nó đã từng đạt đến cấp độ gió cực đại (gió cấp 11, 12 giật cấp 15).
  • 23h45 phút ngày 10/11/2019, bão số 6 đã đổ bộ vào phía Nam huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên (khu vực Mũi Đại Lãnh), với cường độ chỉ còn là ATNĐ cấp 6~7. Trên biển, bão mạnh đến cấp 12; nhưng khi vào gần bờ biển Nam Phú Yên - Bắc Khánh Hòa, do bị không khí lạnh và gió đứt xâm nhập vào phần phía Bắc của bão, di chuyển khá chậm 10–15 km/h và gặp điều kiện không thuận lợi cho bão (độ đứt gió tăng, nước biển vùng Bình Định - Khánh Hoà phổ biến 25-26 độ C - lạnh hơn thời điểm mà bão số 5 trước đó tăng cấp khi áp sát bờ) khiến khi áp sát đất liền phía Nam tỉnh Phú Yên đêm 10/11 bão suy yếu nhanh thành ATNĐ; sau khi vào đất liền huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên (khu vực Mũi Đại Lãnh), phía Nam huyện này hầu như đã trong vùng tâm bão nên mưa tạm giảm, hầu như không có gió, còn các vùng như Bắc Khánh Hoà, các khu vực khác của Phú Yên vẫn còn nằm trong vùng gần tâm bão nên còn gió mạnh và mưa lớn, sau một thời gian thì bão suy yếu nhanh thành vùng thấp và tan dần. Tuy nhiên, do tác động của các hình thế trên kết hợp nên mưa trút xuống vẫn sẽ rất lớn (phổ biến từ 100-300mm, có nơi trên 300mm). Nơi có gió giật cấp 9 đo được ở Tuy Hòa (Phú Yên) và An Nhơn (Bình Định).

Bão Fengshen

Bão cuồng phong (JMA)
Bão cuồng phong cấp 3 (SSHWS)
 
Thời gian10 tháng 11 – 18 tháng 11
Cường độ cực đại155 km/h (100 mph) (10-min)  965 hPa (mbar)

Cấp bão (Nhật Bản): 85kts - bão cuồng phong. Áp Suất tối thiểu: 965 hPa

Cấp bão (Hoa Kỳ): 110kts - bão cuồng phong cấp 3

Fengshen chỉ hoạt động ngoài khơi Thái Bình Dương và có một vài tác động đáng kể lên khu vực quần đảo Mariana.

Bão Kalmaegi (Ramon)

Bão cuồng phong (JMA)
Bão cuồng phong cấp 1 (SSHWS)
 
Thời gian11 tháng 11 – 21 tháng 11
Cường độ cực đại120 km/h (75 mph) (10-min)  980 hPa (mbar)

Cấp bão (Việt Nam): Cấp 11 - Bão Nhiệt đới dữ dội

Cấp bão (Nhật Bản): 65kts - Bão Cuồng phong, Áp suất tối thiểu 980 hPa

Cấp bão (Hoa Kỳ): 80kts - Bão Cuồng phong cấp 1

Cấp bão (Philippines): Bão Cuồng phong

Cấp bão (Trung Quốc): 35 m/s - bão Cuồng phong

Cấp bão (Hồng Kông):105 km/h - bão Nhiệt đới dữ dội

Cấp bão (Hàn): 27 m/s bão Nhiệt đới mạnh

Bão Kalmaegi tương tác với khối không khí lạnh và gió khô mạnh khiến nó di chuyển rất chậm và bị lệch hướng xuống phía nam sau đó suy yếu nhanh và tan dần trên khu vực phía quần đảo Philippines.

Bão Fung-wong (Sarah)

Bão nhiệt đới dữ dội (JMA)
Bão cuồng phong cấp 1 (SSHWS)
 
Thời gian18 tháng 11 – 23 tháng 11
Cường độ cực đại100 km/h (65 mph) (10-min)  990 hPa (mbar)

Cấp bão (Nhật Bản): 55kts - Bão nhiệt đới dữ dội, Áp suất tối thiểu 990 hPa

Cấp bão (Hoa Kỳ): 65kts - bão cuồng phong cấp 1.

Cấp bão (Philippines): Bão nhiệt đới dữ dội

Bão Kammuri (Tisoy) - Bão số 7

Bài chi tiết: Bão Kammuri (2019)
Bão cuồng phong (JMA)
Bão cuồng phong cấp 4 (SSHWS)
 
Thời gian26 tháng 11 – 7 tháng 12
Cường độ cực đại165 km/h (105 mph) (10-min)  950 hPa (mbar)

Cấp bão (Việt Nam): Cấp 14 - Bão cuồng phong

Cấp bão (Nhật Bản): 90kts - Bão cuồng phong. Áp suất tối thiểu 950hPa.

Cấp bão (Hoa Kỳ): 115kts - Bão cuồng phong cấp 4

Cấp bão (Philippines): Bão cuồng phong

Cấp bão (Hồng Kông): 185 km/h - Siêu bão

Cấp bão (Bắc Kinh): 55 m/s - Bão cuồng phong dữ dội

Cấp bão (Hàn): 45 m/s - Bão cuồng phong

Cấp bão (Đài Loan): 47 m/s - Bão cuồng phong mạnh

Vào ngày 26 tháng 11 một vùng thấp mới được hình thành đã mạnh lên thành bão, có tên quốc tế là Kammuri ở ngoài khơi quần đảo Caroline và được JTWC gán số hiệu là 29W. Bão giữ nguyên cường độ trong khi đang di chuyển chậm về phía quần đảo Philippines. Đến sáng ngày 2/12, trong khi đang tiếp cận đến đất liền Philippines, Kammuri bước vào giai đọan tăng cường mạnh mẽ.

Khỏang 08:00 tối PLT (giờ địa phương) ngày 2 tháng 12, Kammuri đã đổ bộ thẳng lên khu vực Bicol và bắc Samar với cường độ mạnh nhất và sức gió tối đa lên tới 215 km/h. Kammuri tiếp tục di chuyển theo hướng Tây, đi vào biển Đông vào chiều ngày thứ ba 3/12 với sức gió giảm xuống cấp 12 và trở thành cơn bão số 7 trong năm nay. Bão suy yếu nhanh chóng vì bị gió cắt hướng đông bắc thổi rất mạnh, hải nhiệt bề mặt thấp chỉ khỏang xấp xỉ 25-26 độ. JTWC đưa ra bản dự báo cuối cùng vào sáng ngày 7/12.

Bão Phanfone (Ursula) - Bão số 8

Bài chi tiết: Bão Phanfone (2019)
Bão cuồng phong (JMA)
Bão cuồng phong cấp 2 (SSHWS)
 
Thời gian21 tháng 12 – 29 tháng 12
Cường độ cực đại150 km/h (90 mph) (10-min)  965 hPa (mbar)

Cấp bão (Việt Nam): Cấp 13 - bão cuồng phong

Cấp bão (Nhật Bản): 80kts - bão cuồng phong. Áp suất tối thiểu 965hPA

Cấp bão (Hoa Kỳ): 95kts bão cuồng phong cấp 2

Cấp bão (Hồng Kông): 140 km/h - bão cuồng phong mạnh

Cấp bão (Bắc Kinh): 40 m/s - bão cuồng phong

Cấp bão (Hàn Quốc): 37 m/s - bão cuồng phong

Cấp bão (Philippines): bão cuồng phong

Vào ngày 20 tháng 12, JTWC bắt đầu theo dõi một vùng nhiễu động nhiệt đới ở phía bắc đảo Papua New Guinea, đặt số hiệu là 98W. Sang ngày hôm sau JMA phát cảnh báo và bản tin dự báo đầu tiên cho áp thấp nhiệt đới, số hiệu là 30W, và nâng cấp cho nó thành một cơn bão nhiệt đới vào ngày hôm sau, có tên quốc tế là Phanfone.

Đến tối ngày 23/12, Trung tâm cảnh báo khí tượng thủy văn trung ương quốc gia (NCHMF) ra bản tin dự báo tin bão gần Biển Đông cho Phanfone. Vào chiều tối ngày 24/12, bão đổ bộ lên eo biển Tacloban giữa Leyte và Samar. Do gặp điều kiện thuận lợi, Phanfone đạt cấp bão cuồng phong cấp 2 ngay sau khi đổ bộ lên đất liền. Bão đổ bộ 5 lần khi đi qua miền trung Philippines và khiến ít nhất 28 người thiệt mạng. Đến sáng ngày 26/12, bão chính thức đi vào biển Đông, trở thành cơn bão số 8, đồng thời cũng là cơn bão có sức gió mạnh nhất trên biển Đông trong năm. Bão có hướng đi rất giống với siêu bão Haiyan 6 năm trước, chỉ khác về cuờng độ và thời gian.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 2019 http://fj.people.com.cn/n2/2019/0825/c181466-33285... http://tcdata.typhoon.gov.cn/en/ http://www.hinews.cn/news/system/2019/08/30/032164... http://www.china.org.cn/china/2019-08/12/content_7... http://thoughtleadership.aonbenfield.com//Document... http://www.asahi.com/ajw/articles/AJ201907210031.h... http://www.australiasevereweather.com/cyclones/200... http://www.gbprimenews.com/default/index_view_page... http://www.miyakomainichi.com/2019/09/123529/ http://kuaibao.qq.com/s/20191003A07O7R00?refer=spi...